Khuyến cáo của Hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ ADA 2022 về phòng ngừa hay trì hoãn đái tháo đường type 2 và các bệnh đồng mắc – Prevention or Delay of Type 2 Diabetes and Associated Comorbidities.
KHUYẾN CÁO ADA 2022
3.1 Tối thiểu cần phải theo dõi hàng năm quá trình tiến triển thành bệnh đái tháo đường type 2 ở những người bị tiền tiểu đường, và đưa ra những điều chỉnh dựa trên đánh giá về nguy cơ/lợi ích của từng cá nhân.
Việc tầm soát nguy cơ tiền đái tháo đường và đái tháo đường type 2 thông qua bảng đánh giá không chính thức về các yếu tố nguy cơ (Bảng 2.3) hoặc bằng một công cụ đánh giá, chẳng hạn như công cụ xét nghiệm nguy cơ tiểu đường của ADA (ADA risk test) (Hình 2.1), là được khuyến cáo nhằm hướng dẫn các bác sĩ chỉ định xét nghiệm chẩn đoán tiền đái tháo đường (Bảng 2.5) và bệnh đái tháo đường type 2 chưa được chẩn đoán trước đây (Bảng 2.2) (xem Chương 2, “Phân loại và chẩn đoán bệnh đái tháo đường”.
Việc xét nghiệm tầm soát tiền đái tháo đường cho những người có nguy cơ cao là cần thiết, bởi vì đánh giá kết quả xét nghiệm là an toàn và hợp lý về chi phí, đồng thời vẫn còn thời gian đáng kể để chúng ta có thể can thiệp và ngăn chặn tiến triển thành bệnh đái tháo đường type 2 và các biến chứng của nó, bên cạnh đó, còn tồn tại nhiều phương tiện hữu hiệu trong việc ngăn ngừa bệnh đái tháo đường type 2 ở những người được xác định là có tiền đái tháo đường với A1C 5,7– 6,4% (39–47 mmol / mol), rối loạn dung nạp glucose hoặc rối loạn glucose lúc đói.
Việc sử dụng A1C để sàng lọc bệnh tiền đái tháo đường và bệnh đái tháo đường có thể bị hạn chế khi bệnh nhân có bệnh lý huyết sắc tố và các bệnh lý ảnh hưởng đến lưu lượng hồng cầu. Xem Chương 2, “Phân loại và chẩn đoán bệnh đái tháo đường” và Chương 6, “Mục tiêu đường huyết”, để biết thêm chi tiết về việc sử dụng thích hợp và các hạn chế của xét nghiệm A1C.
Thay đổi lối sống để phòng ngừa bệnh đái tháo đường
KHUYẾN CÁO
3.2 Giới thiệu người bị thừa cân/ béo phì có nguy cơ cao mắc đái tháo đường type 2 , như đã được phân loại bởi Diabetes Prevention Program (DPP), tham gia chương trình thay đổi lối sống tích cực nhằm đạt và duy trì giảm 7% trọng lượng cơ thể ban đầu và tăng hoạt động thể chất lên mức độ trung bình ( ví dục như đi bộ nhanh ) ít nhất 150 phút mỗi tuần. A
3.3 Nhiều mô hình ăn uống khác nhau có thể được xem xét để phòng ngừa bệnh đái tháo đường ở những người tiền đái tháo đường. B
3.4 Với tính hiệu quả về chi phí của các chương trình điều chỉnh hành vi lối sống để phòng ngừa bệnh đái tháo đường, bệnh nhân nên được các y bác sĩ giới thiệu về các chương trình này. Chương trình phòng tránh bệnh đái tháo đường nên được chi trả bởi bên thứ 3 và các mâu thuẫn trong việc tiếp cận nên được xử lý.
3.5 Dựa trên sở thích của người bệnh, các chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường được hỗ trợ bởi công nghệ đã được chứng nhận có thể đem lại hiệu quả trong phòng chống bệnh đái tháo đường type 2 và nên được cân nhắc. B
Chương trình phòng ngừa đái tháo đường
Nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng chính, như Diabetes Prevention Program (DPP) (1), Finnish Diabetes Prevention Study (DPS) (2) và Da Qing Diabetes Prevention Study (nghiên cứu Da Qing) (3), đã chứng minh rằng điều trị bằng thay đổi lối sống / hành vi với khẩu phần ăn giảm calo tùy theo từng cá nhân có hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa hoặc trì hoãn bệnh đái tháo đường type 2 và cải thiện các dấu ấn tim mạch chuyển hóa khác (chẳng hạn như huyết áp, lipid và viêm) (4).
Bằng chứng mạnh mẽ nhất về việc ngăn ngừa bệnh đái tháo đường ở Hoa Kỳ đến từ nghiên cứu DPP (1). DPP đã chứng minh rằng can thiệp tích cực vào lối sống có thể làm giảm 58% nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 2 trong vòng 3 năm. Theo dõi 3 nghiên cứu lớn về can thiệp lối sống để phòng ngừa bệnh đái tháo đường đã cho thấy sự giảm bền vững nguy cơ tiến triển thành bệnh đái tháo đường type 2: giảm 39% sau 30 năm trong nghiên cứu Da Qing (5), giảm 43% sau 7 năm trong nghiên cứu Finnish DPS (2), và giảm 34% sau 10 năm (6) và giảm 27% sau 15 năm trong U.S. Diabetes Prevention Program Outcomes Study (DPPOS).
Hai mục tiêu chính của nghiên cứu can thiệp lối sống tích cực DPP là đạt được và duy trì mức giảm cân tối thiểu 7% và hoạt động thể chất 150 phút mỗi tuần ở cường độ tương tự như đi bộ nhanh.
Can thiệp lối sống trong nghiên cứu DPP là một can thiệp dựa trên mục tiêu: tất cả những người tham gia đều có cùng mục tiêu giảm cân và hoạt động thể chất, nhưng có thể sử dụng một số phương pháp cá nhân hóa để mỗi người đều đạt được mục tiêu. Mặc dù giảm cân là yếu tố quan trọng nhất để giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường, nhưng người ta cũng thấy rằng việc đạt được mục tiêu ít nhất 150 phút hoạt động thể chất mỗi tuần, ngay cả khi không đạt được mục tiêu giảm cân, làm giảm tỷ lệ mắc đái tháo đường type 2 44%.
Mục tiêu giảm cân 7% được chọn vì nó khả thi để đạt được và duy trì và có khả năng làm giảm nguy cơ phát triển bệnh đái tháo đường. Những người tham gia được khuyến khích giảm 7% trọng lượng trong 6 tháng đầu can thiệp. Phân tích sâu hơn cho thấy có thể phòng ngừa bệnh đái tháo đường một cách tối đa bằng cách giảm ít nhất 7–10% cân nặng.
Tốc độ giảm cân được khuyến nghị là 1–2 lb ( 450 – 900 gr) / tuần. Mục tiêu calo được tính toán bằng cách ước tính lượng calo cần thiết hàng ngày để duy trì cân nặng ban đầu của người tham gia và trừ đi 500–1.000 calo / ngày (tùy thuộc vào trọng lượng cơ thể ban đầu). Trọng tâm ban đầu là giảm tổng lượng chất béo trong khẩu phần ăn. Sau vài tuần, khái niệm cân bằng calo và sự cần thiết phải hạn chế calo cũng như chất béo sẽ được giới thiệu (8).
Mục tiêu cho hoạt động thể chất được chọn để tiêu hao gần 700 kcal / tuần từ hoạt động thể chất. Để dễ hiểu, mục tiêu này được mô tả là cần ít nhất 150 phút hoạt động thể chất cường độ trung bình cho mỗi tuần, cường độ tương tự như đi bộ nhanh. Những người tham gia được khuyến khích phân phối hoạt động của họ trong suốt tuần với tần suất tối thiểu ba lần mỗi tuần và ít nhất 10 phút mỗi phiên tập. Có thể áp dụng tối đa 75 phút tập luyện sức mạnh để đạt được tổng mục tiêu hoạt động thể chất 150 phút / tuần (8).
Để thực hiện các mục tiêu giảm cân và hoạt động thể chất, DPP đã sử dụng mô hình điều trị cá nhân thay vì phương pháp tiếp cận dựa trên nhóm. Sự lựa chọn này dựa trên mong muốn can thiệp trước khi những người tham gia có khả năng mắc bệnh đái tháo đường hoặc mất hứng thú với chương trình. Phương pháp tiếp cận cá nhân cũng cho phép điều chỉnh các can thiệp để phản ánh sự đa dạng của dân số (8).
Sự can thiệp của DPP được quản lý như một chương trình giảng dạy cốt lõi có cấu trúc, sau đó là một chương trình duy trì linh hoạt gồm tư vấn cá nhân, các buổi nhóm, các chiến dịch tạo động lực và các cơ hội khởi động lại.
Chương trình học chính gồm 16 buổi được hoàn thành trong vòng 24 tuần đầu tiên của chương trình và bao gồm các buổi về giảm lượng calo, tăng cường hoạt động thể chất, tự giám sát, duy trì hành vi lối sống lành mạnh và hướng dẫn cách quản lý các thách thức về tâm lý, xã hội và động lực. Có thêm thông tin chi tiết về các buổi học chính của chương trình (8).
Dinh dưỡng
Tư vấn chế độ ăn uống để giảm cân trong nhóm can thiệp lối sống DPP bao gồm việc giảm tổng lượng chất béo và calo trong chế độ ăn uống (1,8,9). Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy rằng không có một tỷ lệ calo lý tưởng từ carbohydrate, protein và chất béo cho tất cả mọi người để ngăn ngừa bệnh đái tháo đường; do đó, việc phân phối chất dinh dưỡng đa lượng nên dựa trên đánh giá cá nhân về lối ăn uống hiện tại, sở thích và mục tiêu về chuyển hóa (10). Dựa trên các thử nghiệm can thiệp khác, một loạt các mô hình ăn uống được đặc trưng bởi tổng số thức ăn và đồ uống được tiêu thụ theo thói quen (10,11) cũng có thể phù hợp với bệnh nhân tiền đái tháo đường (10), bao gồm cả kế hoạch ăn uống theo kiểu Địa Trung Hải và ít carbohydrate (12–15 ). Các nghiên cứu quan sát cũng chỉ ra rằng cách ăn chay, thực vật (có thể bao gồm một số sản phẩm động vật) và Phương pháp ăn kiêng để ngăn chặn Tăng huyết áp (DASH) có liên quan đến việc giảm nguy cơ phát triển bệnh đái tháo đường type 2 (16–19). Bằng chứng cho thấy rằng chất lượng tổng thể của thực phẩm được tiêu thụ (được đo lường bằng Chỉ số Ăn uống Lành mạnh, Chỉ số Ăn uống Lành mạnh thay thế và điểm số DASH), tập trung vào ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu, các loại hạt, trái cây, rau quả và thực phẩm chế biến và tinh chế tối thiểu, cũng có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 2 (18,20–22). Cũng giống với trường hợp của những người mắc bệnh đái tháo đường, liệu pháp dinh dưỡng y tế cá nhân hóa (xem Chương 5, “Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thay đổi hành vi và sức khỏe để cải thiện kết quả sức khỏe”, để biết thêm thông tin chi tiết ) cũng có hiệu quả trong việc giảm A1C ở những người được chẩn đoán tiền đái tháo đường (23).
Hoạt động thể chất
Cũng như viêc hoạt động thể chất 150 phút / tuần với cường độ trung bình, chẳng hạn như đi bộ nhanh, cho thấy tác dụng có lợi ở những người bị tiền đái tháo đường (1), hoạt động thể chất cường độ trung bình đã được chứng minh là cải thiện độ nhạy insulin và giảm mỡ bụng ở trẻ em và thanh niên (24,25). Trên cơ sở những phát hiện này, bác sĩ được khuyến khích quảng bá một chương trình kiểu DPP, bao gồm cả việc tập trung vào hoạt động thể chất, cho tất cả những người đã được xác định là có nguy cơ cao mắc bệnh đái tháo đường type 2. Ngoài hoạt động thể dục nhịp điệu, một chế độ tập thể dục được thiết kế để ngăn ngừa bệnh đái tháo đường có thể bao gồm rèn luyện sức bền (8,26,27). Việc kết thúc quãng thời gian ít vận động kéo dài cũng có thể được khuyến khích, vì nó có liên quan đến mức đường huyết sau ăn thấp hơn một cách vừa phải (28,29). Các tác dụng phòng ngừa của tập thể dục dường như mở rộng đến việc ngăn ngừa bệnh đái tháo đường thai kỳ (GDM) (30).
Cung cấp và phổ biến thay đổi hành vi lối sống để phòng ngừa đái tháo đường
Bởi vì việc DPP can thiệp sâu vào lối sống có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh đái tháo đường type 2 ở những người có nguy cơ cao mắc bệnh và các chương trình thay đổi hành vi lối sống để phòng chống bệnh đái tháo đường đã được chứng minh là có hiệu quả về chi phí, nên những nỗ lực toàn diện hơn để phổ biến các chương trình thay đổi hành vi lối sống để ngăn ngừa bệnh đái tháo đường với sự bao trả thanh toán của bên thứ ba đã phát sinh sau đó(31–35).
Cung cấp truyền thông các nội dung thuộc DPP theo từng nhóm trong cộng đồng hoặc trong chính cơ sở chăm sóc đã chứng minh tiềm năng giảm chi phí của tổng chương trình trong khi vẫn giảm cân và giảm nguy cơ bệnh đái tháo đường (36–40).
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã phát triển Chương trình Phòng chống Đái tháo đường Quốc gia (National DPP), một nguồn lực được thiết kế để đưa các chương trình thay đổi lối sống dựa trên bằng chứng để ngăn ngừa bệnh đái tháo đường týp 2 cho cộng đồng (www.cdc.gov/diabetes/prevention / index.htm).
Tài nguyên trực tuyến này bao gồm các địa điểm của các chương trình thay đổi lối sống để phòng ngừa bệnh đái tháo đường được CDC công nhận (có tại www.cdc.gov/diabetes/prevention/ find-aprogram.html).
Để đủ điều kiện tham gia chương trình này, bệnh nhân phải có chỉ số BMI trong phạm vi thừa cân và có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường dựa trên xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, chẩn đoán GDM trước đó hoặc xét nghiệm nguy cơ dương tính (có tại www.cdc.gov/prediabetes/ takethetest /).
Kết quả từ chương trình DPP quốc gia của CDC trong 4 năm đầu tiên thực hiện là đầy hứa hẹn và chứng tỏ hiệu quả về chi phí (41). CDC cũng đã phát triển Bộ công cụ tác động phòng ngừa bệnh đái tháo đường (có tại nccd.cdc.gov/ toolkit / diabimpact) để giúp các tổ chức đánh giá tính kinh tế của việc cung cấp hoặc chi trả cho chương trình thay đổi lối sống DPP Quốc gia (42).
Trong nỗ lực mở rộng các dịch vụ phòng ngừa sử dụng mô hình tiết kiệm chi phí bắt đầu vào tháng 4 năm 2018, Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid đã mở rộng phạm vi bảo hiểm hoàn trả Medicare cho can thiệp lối sống DPP Quốc gia cho các tổ chức được CDC công nhận trở thành nhà cung cấp Medicare cho dịch vụ này (innovation.cms.gov/innovation-models/ medicare-diabetes-prevention-program). Địa điểm của các DPP Medicare có sẵn trực tuyến tại Innovation.cms.gov/ Innovation-models / medicare-diabprevention-program / mdpp-map. Để đủ điều kiện nhận bảo hiểm Medicare, bệnh nhân phải có BMI> 25 kg / m2 (hoặc BMI> 23 kg / m2 nếu tự nhận là người Châu Á) và xét nghiệm phù hợp với giai đoạn tiền đái tháo đường trong năm qua. Phạm vi bảo hiểm của Medicaid đối với can thiệp lối sống DPP cũng đang mở rộng trên cơ sở từng tiểu bang.
Trong khi các chương trình tư vấn hành vi được CDC công nhận, bao gồm các dịch vụ Medicare DPP, đã đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu và được nhiều người trả tiền, tỷ lệ duy trì đối với người trẻ tuổi và các nhóm chủng tộc / dân tộc thiểu số vẫn còn thấp (43).
Do đó, các chương trình khác và các phương thức tư vấn hành vi để phòng ngừa bệnh đái tháo đường cũng có thể phù hợp và hiệu quả dựa trên sở thích và tình trạng sẵn có của bệnh nhân. Việc sử dụng nhân viên y tế cộng đồng để hỗ trợ các nỗ lực DPP đã được chứng minh là có hiệu quả và tiết kiệm chi phí (44,45) (xem Chương 1, “Cải thiện việc chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho người dân”, để biết thêm thông tin).
Việc sử dụng các nhân viên y tế cộng đồng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các thay đổi hành vi để phòng ngừa bệnh đái tháo đường đồng thời thu hẹp các rào cản liên quan đến các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe, mặc dù việc bao trả bởi bên thứ ba vẫn còn nhiều vấn đề.
Tư vấn bởi các chuyên gia dinh dưỡng có đăng ký (RDN) đã được chứng minh là giúp những người bị tiền đái tháo đường cải thiện thói quen ăn uống, tăng cường hoạt động thể chất và giảm 7–10% cân nặng (10,46–48). Liệu pháp dinh dưỡng y tế cá nhân hóa (xem Chương 5, “Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thay đổi hành vi và sức khỏe để cải thiện kết quả sức khỏe”, để biết thêm thông tin chi tiết) cũng có hiệu quả trong việc cải thiện đường huyết ở cá nhân được chẩn đoán với tiền đái tháo đường (23,46). Hơn nữa, các thử nghiệm liên quan đến liệu pháp dinh dưỡng y tế cho bệnh nhân tiền đái tháo đường cho thấy trọng lượng, vòng eo và đường huyết giảm đáng kể.
Những người bị tiền đái tháo đường có thể được hưởng lợi từ việc được giới thiệu đến RDN một cách định kỳ để được điều trị bằng dinh dưỡng y tế cá nhân sau khi được chẩn đoán, trong suốt phác đồ điều trị của họ (48,49). Các chuyên gia y tế đồng minh khác, chẳng hạn như dược sĩ và chuyên gia chăm sóc và giáo dục bệnh đái tháo đường, có thể được xem xét giới thiệu cho bệnh nhân để cùng nỗ lực phòng ngừa đái tháo đường (50,51).
Các chương trình được hỗ trợ công nghệ có thể cung cấp hiệu quả chương trình DPP (52–57). Các chương trình được hỗ trợ bởi công nghệ như vậy có thể cung cấp nội dung thông qua điện thoại thông minh, các ứng dụng dựa trên web, và sức khỏe từ xa và có thể là một lựa chọn chấp nhận được và hiệu quả để vượt qua các rào cản, đặc biệt là đối với bệnh nhân nông thôn và thu nhập thấp; tuy nhiên, không phải tất cả các chương trình đều có hiệu quả trong việc giúp mọi người đạt được mục tiêu phòng chống bệnh đái tháo đường (52,58–60).
Chương trình Nhận biết Phòng ngừa Đái tháo đường của CDC (DPRP) (www.cdc. Gov /etes / Prevention / Request-Recognition.htm) chứng nhận các phương thức được hỗ trợ bởi công nghệ là phương tiện hữu hiệu cho các chương trình dựa trên DPP; các chương trình đó phải sử dụng trình giảng dạy đã được phê duyệt, bao gồm tương tác với huấn luyện viên và đạt được kết quả DPP khi tham gia, về hoạt động thể chất và giảm cân. Do đó, các nhà cung cấp nên cân nhắc giới thiệu bệnh nhân tiền đái tháo đường đến các chương trình DPP có hỗ trợ công nghệ được chứng nhận dựa trên sở thích của bệnh nhân.
CAN THIỆP BẰNG THUỐC
KHUYẾN CÁO ĐIỀU TRỊ THUỐC NGĂN CHẶN BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
3.6 Điều trị bằng metformin để phòng ngừa bệnh Đái tháo đường type 2 nên được xem xét ở người lớn bị tiền ĐTĐ, như được phân loại bởi Chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ, đặc biệt là những người từ 25–59 tuổi với BMI ≥35 kg/m 2 , đường huyết lúc đói cao hơn (ví dụ: ≥110 mg/dL), và A1C cao hơn (ví dụ: ≥6,0%), và ở phụ nữ bị ĐTĐ thai kỳ trước đó. A
3.7 Sử dụng metformin lâu dài có thể liên quan đến thiếu hụt vitamin B12 sinh hóa; Cân nhắc việc đo định kỳ nồng độ vitamin B12 ở những bệnh nhân được điều trị bằng metformin, đặc biệt ở những người bị thiếu máu hoặc bệnh thần kinh ngoại biên. B
Chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường
Bởi vì giảm cân thông qua thay đổi hành vi trong chế độ ăn uống và tập thể dục đơn thuần có thể khó duy trì lâu dài (6), những người đang điều trị bằng liệu pháp giảm cân có thể được hưởng lợi từ sự hỗ trợ và các lựa chọn dược lý trị liệu bổ sung, nếu cần.
Các tác nhân dược lý khác nhau được sử dụng để điều trị bệnh đái tháo đường đã được đánh giá về việc ngăn ngừa bệnh đái tháo đường. Metformin, chất ức chế alpha-glucosidase, liraglutide, thiazolidinediones, testosterone (61) và insulin đã được chứng minh là làm giảm tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở một số dân số cụ thể (62–67), trong khi nateglinide không ngăn ngừa được bệnh đái tháo đường (68). Ngoài ra, một số loại thuốc giảm cân như orlistat và phentermine topiramate cũng đã được chứng minh trong các nghiên cứu để giảm tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở các mức độ khác nhau ở những người bị tiền đái tháo đường (69,70).
Các nghiên cứu về các tác nhân dược lý khác đã cho thấy một số hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh đái tháo đường với valsartan nhưng với ramipril hay thuốc kháng viêm thì không có hiệu quả (71-74). Mặc dù thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng giữa vitamin D và bệnh đái tháo đường type 2 (D2d) cho thấy không có lợi ích đáng kể của vitamin D so với giả dược đối với sự tiến triển thành bệnh đái tháo đường type 2 ở những người có nguy cơ cao (75), nhưng các phân tích hậu kỳ và phân tích tổng hợp cho thấy một tiềm năng có lợi trong các quần thể cụ thể (75–78). Cần có nghiên cứu sâu hơn để xác định đặc điểm của bệnh nhân và các chỉ điểm lâm sàng mà vitamin D có thể đem lại lợi ích cho.(61).
Không có tác nhân dược lý nào được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ phê duyệt đặc biệt để phòng ngừa bệnh đái tháo đường. Phải cân nhắc giữa rủi ro và lợi ích của mỗi loại thuốc. Metformin có cơ sở bằng chứng mạnh mẽ nhất (1) và được chứng minh là an toàn lâu dài như một liệu pháp dược lý để phòng ngừa bệnh đái tháo đường (79). Đối với các loại thuốc khác, cần cân nhắc chi phí, tác dụng phụ, mục tiêu điều trị và hiệu quả lâu dài.
Nhìn chung, metformin kém hiệu quả hơn so với điều chỉnh lối sống trong DPP, mặc dù sự khác biệt giữa các nhóm giảm theo thời gian trong DPPOS (7) và metformin có thể tiết kiệm chi phí trong khoảng thời gian 10 năm (33). Trong quá trình theo dõi ban đầu trong DPP, metformin có hiệu quả tương đương với việc thay đổi lối sống ở những người tham gia có BMI > 35 kg / m2 và ở những người tham gia trẻ tuổi từ 25–44 tuổi (1).
Trong DPP, đối với những phụ nữ có tiền sử GDM, metformin và điều chỉnh lối sống tích cực đã làm giảm tương đương 50% nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường (80), và cả hai biện pháp can thiệp vẫn có hiệu quả cao trong thời gian theo dõi 10 năm (81). Vào thời điểm theo dõi 15 năm (DPPOS), các phân tích thăm dò đã chứng minh rằng những người tham gia có đường huyết lúc đói cơ bản cao hơn (> 110 mg / dL so với 95–109 mg / dL), những người có A1C cao hơn (6,0–6,4 % so với <6,0%), và phụ nữ có tiền sử GDM (so với phụ nữ không có tiền sử GDM) có thể giảm được tỷ lệ nguy cơ với metformin, xác định các phân nhóm người tham gia được hưởng lợi nhiều nhất từ metformin (82). Trong Chương trình Phòng chống Đái tháo đường của Ấn Độ (IDPP-1), metformin và can thiệp lối sống đã làm giảm nguy cơ đái tháo đường tương tự ở thời điểm 30 tháng theo dõi; cần lưu ý, can thiệp lối sống trong IDPP-1 ít tích cực hơn so với trong DPP (83).
Dựa trên các phát hiện từ DPP, metformin nên được khuyến nghị như một lựa chọn cho những người có nguy cơ cao (ví dụ: những người có tiền sử GDM hoặc những người có BMI > 35 kg / m2). Cân nhắc theo dõi định kỳ nồng độ vitamin B12 ở những người dùng metformin mạn tính để kiểm tra tình trạng thiếu hụt (84,85) (xem Chương 9, “Phương pháp tiếp cận dược lý để điều trị đường huyết”, cho chi tiết hơn).
PHÒNG NGỪA BỆNH LÝ TIM MẠCH VÀ TỬ VONG
KHUYẾN CÁO
3.8 Tiền ĐTĐ có liên quan đến nguy cơ tim mạch cao; do đó, nên tầm soát và điều trị các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được đối với bệnh tim mạch. B
Những người bị tiền đái tháo đường thường có các yếu tố nguy cơ tim mạch khác, bao gồm tăng huyết áp và rối loạn lipid máu (86), và có nhiều nguy cơ mắc bệnh tim mạch (87,88). Đánh giá việc sử dụng thuốc lá và chuyển tuyến để cai thuốc lá, nếu được chỉ định, nên là một phần của chăm sóc định kỳ cho những người có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường. Cần lưu ý, những năm ngay sau khi ngừng hút thuốc có thể là thời điểm gia tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường (89–91), thời điểm mà bệnh nhân cần được theo dõi sự phát triển của bệnh đái tháo đường và đồng thời nên có sự thay đổi trong hành vi lối sống dựa trên bằng chứng để phòng ngừa bệnh đái tháo đường.
Xem Chương 5, “Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thay đổi hành vi và phúc lợi để cải thiện kết quả sức khỏe”, để biết thêm thông tin chi tiết. Các can thiệp lối sống để giảm cân trong quần thể nghiên cứu có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 2 đã cho thấy sự giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch và nhu cầu sử dụng thuốc để điều trị các yếu tố nguy cơ tim mạch này (92,93).
Trong quá trình theo dõi lâu dài, các can thiệp lối sống để phòng ngừa bệnh đái tháo đường cũng ngăn ngừa sự phát triển của các biến chứng vi mạch ở phụ nữ tham gia DPPOS và trong dân số nghiên cứu tham gia Nghiên cứu kết quả phòng ngừa bệnh đái tháo đường Trung Quốc Da Qing (7,94). Sự can thiệp vào lối sống trong nghiên cứu sau cũng có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh tim mạch và tử vong ở 23 và 30 năm theo dõi (3,5).
Mục tiêu điều trị và liệu pháp điều trị tăng huyết áp và rối loạn lipid máu trong phòng ngừa ban đầu bệnh tim mạch cho người tiền đái tháo đường phải dựa trên mức độ nguy cơ tim mạch của họ, và cần tăng cường cảnh giác để xác định và điều trị những bệnh này và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác (95).
MỤC TIÊU CHĂM SÓC LẤY BỆNH NHÂN LÀM TRUNG TÂM
KHUYẾN CÁO
3.9 Ở người lớn thừa cân/béo phì có nguy cơ cao mắc bệnh Đái tháo đường type 2, các mục tiêu chăm sóc cần bao gồm giảm cân hoặc ngăn ngừa tăng cân, giảm thiểu sự tiến triển của tăng đường huyết, và chú ý đến nguy cơ tim mạch và các bệnh đi kèm. B
Nguy cơ / lợi ích cá nhân hóa nên được xem xét trong tầm soát, can thiệp và theo dõi để ngăn ngừa hoặc trì hoãn bệnh đái tháo đường týp 2 và các bệnh đồng mắc. Nhiều yếu tố, bao gồm tuổi tác, BMI và các bệnh đi kèm khác, có thể ảnh hưởng đến nguy cơ tiến triển thành bệnh đái tháo đường và nguy cơ biến chứng suốt đời (96,97).
Trong DPP, bao gồm những người có nguy cơ cao bị rối loạn dung nạp glucose, tăng đường huyết lúc đói và tăng BMI, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường thô trong nhóm giả dược là 11,0 trường hợp trên 100 người-năm, với tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường tích lũy trong 3 năm là 28,9% (1).
Trong nghiên cứu Rủi ro xơ vữa động mạch trong cộng đồng (ARIC), theo dõi quan sát người lớn tuổi (trung bình 75 tuổi) với bằng chứng xét nghiệm tiền đái tháo đường (dựa trên A1C 5,7–6,4% và / hoặc đường huyết lúc đói 100–125 mg / dL) nhưng không đáp ứng các tiêu chí BMI cụ thể cho thấy mức độ tiến triển thành bệnh đái tháo đường thấp hơn nhiều trong vòng 6 năm: 9% những người bị tiền đái tháo đường xác định bằng A1C, 8% bị rối loạn đường huyết lúc đói (97).
Do đó, điều quan trọng là phải cá thể hóa rủi ro / lợi ích của việc can thiệp và xem xét các mục tiêu lấy con người làm trung tâm. Các mô hình rủi ro đã khám phá lợi ích dựa trên rủi ro, nhìn chung tìm thấy lợi ích cao hơn của việc can thiệp ở những người có rủi ro cao nhất (9). Các nghiên cứu quan sát và phòng ngừa bệnh đái tháo đường nêu bật một số nguyên tắc chính, có thể hướng dẫn các mục tiêu lấy bệnh nhân làm trung tâm.
Trong DPP, nơi thu nhận nhóm dân số có nguy cơ cao đáp ứng các tiêu chí về thừa cân / béo phì, giảm cân là yếu tố trung gian quan trọng trong việc ngăn ngừa hoặc trì hoãn sự phát triển bệnh đái tháo đường, với lợi ích chuyển hóa lớn hơn thường thấy khi giảm cân nhiều hơn (9,98). Trong DPP / DPPOS, sự tiến triển thành bệnh đái tháo đường, thời gian mắc bệnh đái tháo đường và mức đường huyết trung bình là những yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của các biến chứng vi mạch (7).
Hơn nữa, khả năng đạt được trạng thái điều hòa glucose bình thường, ngay cả khi chỉ có một lần, trong DPP có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường và giảm nguy cơ biến chứng vi mạch (99). Theo dõi quan sát của nghiên cứu Da Qing cũng cho thấy rằng sự thuyên giảm từ rối loạn dung nạp glucose sang dung nạp glucose bình thường hoặc vẫn còn giữ nguyên rối loạn dung nạp glucose thay vì tiến triển thành bệnh đái tháo đường type 2 vào cuối thử nghiệm can thiệp kéo dài 6 năm dẫn đến kết quả nguy cơ tim mạch và bệnh mạch máu nhỏ giảm thấp hơn đáng kể trong vòng 30 năm (100). Tiền đái tháo đường có liên quan đến gia tăngtỷ lệ mắc bệnh tim mạch và tỷ lệ tử vong (88), nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đề phòng nguy cơ tim mạch ở nhóm dân số này.
Tài liệu được dịch từ: Prevention or Delay of Type 2 Diabetes and Associated Comorbidities: Standards of Medical Care in Diabetes—2022
Share bài viết:
THẢO LUẬN – HỎI ĐÁP
Nếu bạn có comment hay câu hỏi nào, vui lòng đến trang HỎI ĐÁP BỆNH TIỂU ĐƯỜNG để thảo luận.