Tiền đái tháo đường – PreDiabetes – là thuật ngữ được sử dụng cho những người có mức đường huyết không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường nhưng có chuyển hóa carbohydrate bất thường.
Những người bị tiền đái tháo đường là người có:
- Rối loạn đường huyết đói – IFG, hoặc
- Rối loạn dung nạp Glucose – IGT, hoặc
- A1C 5,7–6,4% (39–47 mmol/mol) (Bảng 2.5).
Tiền đái tháo đường không nên được xem như một bệnh theo đúng nghĩa của nó, mà là yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh đái tháo đường và bệnh tim mạch (CVD).
Tiêu chuẩn sàng lọc bệnh đái tháo đường hoặc tiền đái tháo đường ở người lớn không có triệu chứng được nêu trong bảng dưới đây:
Tiêu chuẩn sàng lọc Tiền Đái tháo đường hay Đái tháo đường type 2 ở người lớn không triệu chứng
1. Xét nghiệm nên xem xét cho những người bị thừa cân hoặc béo phì (BMI ≥25 kg/m2 hoặc ≥23 kg/m2 ở người Mỹ gốc Á) có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ sau: |
• Có người thân trực hệ mắc bệnh đái tháo đường |
• Thuộc chủng tộc/dân tộc có nguy cơ cao (ví dụ: Người Mỹ gốc Phi, Người Latinh, Người Mỹ bản địa, Người Mỹ gốc Á, Người dân đảo Thái Bình Dương) |
• Tiền sử bệnh lý tim mạch. |
• Tăng huyết áp (≥140/90 mmHg hoặc đang điều trị tăng huyết áp) |
• Có mức cholesterol HDL <35 mg/dL (0,9 mmol/L) và/hoặc triglyceride > 250 mg/dL (2,82 mmol/L) |
• Phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang |
• Lối sống ít vận động thể lực |
• Có tình trạng tăng đề kháng insulin (ví dụ: béo phì nặng, gai đen – acanthosis nigricans) |
2. Bệnh nhân tiền Đái tháo đường (A1C ≥5,7% [39 mmol/mol], Rối loạn dung nạp Glucose – IGT, hoặc Rối loạn đường huyết đói – IFG) nên được kiểm tra hàng năm. |
3. Phụ nữ đã được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ nên làm xét nghiệm suốt đời ít nhất 3 năm một lần. |
4. Đối với các bệnh nhân khác, nên bắt đầu xét nghiệm khi 35 tuổi. |
5. Nếu kết quả bình thường, việc xét nghiệm nên được lặp lại tối ít nhất mỗi 3 năm, xét nghiệm thường xuyên hơn tùy thuộc vào kết quả ban đầu và tình trạng của các yếu tố nguy cơ. |
6. Người nhiễm HIV |
Tiền đái tháo đường thường kết hợp với béo phì (đặc biệt là béo phì vùng bụng hoặc nội tạng), rối loạn lipid máu với triglyceride cao và/hoặc cholesterol HDL thấp, và tăng huyết áp.
Khi có sự hiện diện của tiền đái tháo đường, nên nhanh chóng tầm soát toàn diện các yếu tố nguy cơ tim mạch.
Chẩn đoán tiền đái tháo đường
- IFG – impaired fasting glucose: Rối loạn đường huyết đói được định nghĩa khi đường glucose huyết tương đo lúc đói từ 100 đến 125 mg/dL (từ 5,6 đến 6,9 mmol/L)
- IGT – impaired glucose tolerance: Rối loạn dung nạp Glucose khi mức đường glucose huyết tương đo ở thời điểm 2 giờ trong nghiệm pháp dung nạp Glucose bằng đường uống 75g từ 140 đến 199 mg/dL (từ 7,8 đến 11,0mmo/L).
Cần lưu ý rằng WHO và nhiều tổ chức khác xác định giới hạn dưới của rối loạn đường huyết đói IFG là 110 mg/dL (6,1 mmol/L).

Cùng với các phương pháp đo Glucose, một số nghiên cứu tiền cứu đã sử dụng A1C để dự đoán tiến triển bệnh đái tháo đường, bởi vì HA1C đã được chứng minh bằng mối liên hệ chặt chẽ, liên tục giữa A1C và bệnh đái tháo đường.
Trong một đánh giá tổng hợp với 44.203 cá nhân từ 16 nghiên cứu cohort với thời gian theo dõi trung bình là 5,6 năm (khoảng 2,8–12 tuổi), những người có A1C từ 5,5% đến 6,0% (từ 37 đến 42 mmol/mol) có tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường (tỷ lệ mắc bệnh trong 5 năm từ 9% lên 25%).
Những người có mức A1C từ 6,0–6,5% (42–48 mmol/mol) có nguy cơ diễn tiến thành bệnh đái tháo đường trong 5 năm từ 25% đến 50% và nguy cơ tương đối cao hơn 20 lần so với A1C là 5,0% (31 mmol/mol).
Trong một nghiên cứu trên cộng đồng người Mỹ gốc Phi và người da trắng không gốc Tây Ban Nha không mắc bệnh đái tháo đường, A1C ban đầu là yếu tố dự báo bệnh đái tháo đường và các biến cố tim mạch mạnh hơn so với đường huyết lúc đói.
Các phân tích khác cho thấy A1C từ 5,7% (39 mmol/mol) trở lên có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường tương tự như ở những người có nguy cơ cao trong nghiên cứu Chương trình Phòng ngừa bệnh đái tháo đường (Diabetes Prevention Program – DPP), và A1C ở thời điểm ban đầu là yếu tố dự báo mạnh mẽ khả năng diễn tiến thành bệnh đái tháo đường được xác định bằng mức glucose trong suốt nghiên cứu DPP và quá trình theo dõi sau nghiên cứu.
Vì vậy, chúng ta có lý do để khuyến cáo A1C từ 5,7–6,4% (39–47 mmol/mol) là giá trị xác định tiền đái tháo đường.
Tương tự như những người có IFG và/hoặc IGT, người có A1C từ 5,7–6,4% (39–47 mmol/mol) nên được thông báo về việc tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường và bệnh lý tim mạch và nên được tư vấn về các chiến lược hiệu quả để giảm thiểu nguy cơ. (xem “Phòng ngừa hoặc trì hoãn bệnh đái tháo đường type 2 và các bệnh đi kèm liên quan,” https: // doi.org/10.2337/dc22-S003).
Chẩn đoán tiền đái tháo đường chỉ cần 1 trong 3 kết quả:
Xét nghiệm | Đường huyết bình thường | Tiền đái tháo đường |
Đường huyết đói | < 100 mg/dl (5.6 mmol/L) | từ 100 tới 125 mg/dl (5.6 – 7.8 mmol/L) |
Nghiệm pháp dung nạp glucose | < 140 mg/dl ( 7,8 mmol/L) | Từ 140 tới 199 mg/dl (7.8 – 11 mmolL) |
HbA1c | < 5,7% | Từ 5,7 tới 6,4% |
Tương tự như đo glucose, nguy cơ liên tục là đường cong, vì vậy khi A1C tăng, nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường tăng lên không tương ứng.
Các biện pháp can thiệp và theo dõi tích cực đối với những người có nguy cơ rất cao (ví dụ, những người có A1C> 6,0% [42 mmol/mol]) nên được tuân thủ.
Bảng đánh giá nguy cơ đái tháo đường của Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ – ADA là một lựa chọn bổ sung nhằm tầm soát bệnh đái tháo đường hoặc tiền đái tháo đường ở người lớn không có triệu chứng (Hình ) (diab.org/socrisktest).

Nguồn: Bài viết được dịch từ Classification and Diagnosis of Diabetes: Standards of Medical Care in Diabetes—2022 bởi Bs Ngô Thế Phi
Bạn có thể dễ dàng đánh giá nguy cơ mắc Đái tháo đường type 2 hay Tiền đái tháo đường bằng cách trả lời bảng đánh giá dưới đây:
Cách tính chỉ số khối cơ thể
CÁCH TÍNH BMI
Đánh giá nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tiền tiểu đường sớm nhất
Ngay cả khi các xét nghiệm trong giới hạn bình thường, bạn cũng cần đánh giá xem mình có nguy cơ mắc bệnh trong tương lai hay không?
Powerpoint trình chiếu về bệnh tiền đái tháo đường:
- Chẩn đoán tiền đái tháo đường
- Người có nguy cơ cao bị tiền đái tháo đường
- Điều trị tiền đái tháo đường như thế nào