Bệnh thần kinh tự chủ do đái tháo đường là biến chứng thần kinh xảy ra do đường huyết tăng cao tác động đến các sợi thần kinh kiểm soát chức năng tự động của tim, bàng quang, đường tiêu hóa, cơ quan sinh dục, tiết mồ hôi và nhiều cơ quan khác.
Các triệu chứng của bệnh thần kinh tự chủ do đái tháo đường
Các biểu hiện lâm sàng của bệnh thần kinh tự chủ do đái tháo đường bao gồm:
- Nhịp tim nhanh khi nghỉ ngơi
- Hạ huyết áp tư thế: xây xẩm, đau đầu nhẹ khi thay đổi tư thế từ nằm hay ngồi sang đứng.
- Liệt dạ dày hay chậm làm trống dạ dày
- Bón hay tiêu chảy
- Đại tiện không kiểm soát
- Rối loạn cương dương
- Bàng quang thần kinh: tiểu không hết, tiểu không kiểm soát
- Rối loạn tiết mồ hôi: tăng hay giảm tiết
Bệnh thần kinh tự chủ tim mạch – Cardiovascular Autonomic Neuropathy.
Trong giai đoạn sớm, bệnh thần kinh tự chủ tim mạch hoàn toàn không có triệu chứng và chỉ được phát hiện khi nhịp tim giảm lúc hít thở sâu.
Khi bệnh ở giai đoạn muộn hơn, nhịp tim nhanh khi nghỉ ngơi ( > 100 nhịp/ phút) và hạ huyết áp tư thế.
Hạ huyết áp tư thế khi: Thay đổi tư thế sang đứng, bệnh nhân có huyết áp tâm thu giảm > 20 mmHg hay huyết áp tâm trương giảm > 10mmHg, trong khi nhịp tim không tăng tương ứng.
Điều trị bệnh thần kinh tự chủ tim mạch: giảm bớt các triệu chứng.
Điều trị hạ huyết áp tư thế
Điều trị hạ huyết áp tư thế là thử thách.
Mục tiêu điều trị là giảm thiểu triệu chứng hạ huyết áp tư thế hơn là đưa huyết áp về bình thường.
Bệnh nhân nên có chế độ ăn đầy đủ muối, tránh hạ huyết áp quá mức, có thể sử dụng băng quấn tạo áp lực lên chân và bụng.
Khuyến khích bệnh nhân tăng hoạt động thể chất và tập thể dục.
Huyết áp đo lúc nằm nên giữ ở mức cao nhẹ hơn người bình thường.
Thuốc huyết áp uống vào buổi tối, trước khi ngủ nên lựa những nhóm có thời gian hoạt động ngắn, có tác dụng trên thụ thể cảm nhận áp suất (baroreceptor) như guanfacine hay clonidine, nhóm ức chế calci tác dụng ngắn ( vd, isradipine) hay các nhóm ức chế beta tác dụng ngắn như atenolol hay metoprolol.
Nếu bệnh nhân không dung nạp được các nhóm thuốc trên, có thể thay bằng enalapril.
Các nhóm thuốc Midodrine và droxidopa đã được FDA chấp thuận cho điều trị hạ huyết áp thư thế.
Bệnh thần kinh tự chủ trên đường tiêu hóa – Gastrointestinal Neuropathies.
Biến chứng thần kinh trên đường tiêu hóa có thể xảy ra ở bất cứ phần nào của ống tiêu hóa, như rối loạn nuốt ở thực quản, liệt dạ dày, táo bón, tiêu chảy, đi tiêu không tự chủ.
Chẩn đoán liệt dạ dày
Liệt dạ dày nên nghi ngờ ở những bệnh nhân kiểm soát đường huyết kém và có các triệu chứng trên đường tiêu hóa mà không tìm thấy các nguyên nhân cụ thể.
Cần loại trừ các nguyên nhân gây bệnh dạ dày có thể điều trị được, như viêm loét hay do nguyên nhân tắc nghẽn trước khi sử dụng các biện pháp chuyên biệt để chẩn đoán liệt dạ dày.
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán liệt dạ dày là đo độ trống dạ dày bằng xạ hình mỗi 15 phút trong 4 giờ sau ăn.
Điều trị liệt dạ dày
Điều trị liệt dạ dày do đái tháo đường không phải dễ dàng gì.
Có thể chia thành nhiều bữa ăn nhỏ, mỗi lần ăn ít mỡ, ít chất xơ và thức ăn nên lõng, nhiều năng lượng.
Nên ngưng các thuốc ảnh hưởng sự nhu động đường tiêu hóa như nhóm opioids, anticholinergics, tricyclic antidepressants, GLP-1 RAs, và pramlintide.
Chỉ có nhóm thuốc metoclopramide là được FDA chấp thuận cho điều trị liệt dạ dày, tuy nhiên hiệu quả không nhiềuđồng thời cần thận trọng với tác dụng phụ của thuốc, vd triệu chứng ngoại tháp …
Những thuốc khác như domperidone và erythromycin, chỉ hiệu quả trong thời gian ngắn.
Rối loạn chức năng hệ niệu dục
Bệnh thần kinh tự chủ do đái tháo đường cũng có thể gây ra những rối loạn cho hệ niệu dục, như rối loạn chức năng tình dục và bàng quang.
Ở nam giới, bệnh thần kinh tự chủ do đái tháo đường gây ra tình trạng rối loạn cương dương và/ hay xuất tinh ngược dòng.
Ở nữ giới, rối loạn chức năng tình dục xảy ra thường xuyên ở người đái tháo đường như giảm ham muốn tình dục, đau khi giao hợp, giảm chất nhờn âm đạo.
Các triệu chứng bất thường của đường tiểu dưới như: tiểu không kiểm soát và rối loạn chức năng bàng quang ( tiểu đêm, tiểu nhiều lần, tiểu gấp và dòng tiểu yếu).
Đánh giá chức năng bàng quang nên được thực hiện ở bệnh nhân đái tháo đường có nhiễm trùng tiểu tái phát, viêm bể thận, tiểu không kiểm soát hay sờ thấy cầu bàng quang.
Điều trị rối loạn cương – Erectile Dysfunction
Điều trị suy sinh dục, nếu có.
Điều trị rối loạn cương dương có thể bao gồm các nhóm thuốc phosphodiesterase type 5 inhibitors: sildenafil (Viagra, Pfizer), vardenafil (Levitra, Bayer), tadalafil (Cialis, Eli Lilly), avanafil (Stendra, Vivus), tiêm prostaglandin hay nhỏ vào trong niệu đạo, sử dụng dụng cụ hút chân không hay cấy penile prostheses.
Cũng như các phương pháp điều trị biến chứng thần kinh ngoại biên khác, những phương pháp điều trị này không làm thay đổi bệnh lý cơ bản và tiến triển tự nhiên của quá trình bệnh nhưng có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Tham khảo:
Retinopathy, Neuropathy, and Foot Care: Standards of Care in Diabetes—2023
Share bài viết:
THẢO LUẬN – HỎI ĐÁP
Nếu bạn có comment hay câu hỏi nào, vui lòng đến trang HỎI ĐÁP BỆNH TIỂU ĐƯỜNG để thảo luận.